Trả lời câu hỏi của độc giả Nguyễn Khánh Hưng, xin có ý kiến trao đổi như sau:
1. Về câu hỏi "Bộ KHCN rà soát các điều ước quốc tế nào khi xác định công nghệ hạn chế/ cấm chuyển giao?"
Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao, Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao, Danh mục công nghệ cấm chuyển giao (03 Danh mục) được Bộ KH&CN xây dựng trên cơ sở đề xuất của các bộ, ngành, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan và Bộ KH&CN thành lập Hội đồng gồm đại diện các bộ, cơ quan ngang bộ, các chuyên gia có trình độ chuyên môn sâu trong các lĩnh vực để đánh giá và đề xuất các công nghệ vào 03 Danh mục.
Khi xây dựng 03 Danh mục công nghệ nêu trên, các bộ, ngành đã có trách nhiệm rà soát các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong đó có nội dung liên quan đến việc hạn chế hoặc cấm chuyển giao công nghệ, ví dụ: đã đưa Công nghệ sử dụng các hợp chất hữu cơ khó phân hủy vào Danh mục công nghệ cấm chuyển giao theo Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy năm 2001; đưa Công nghệ làm giàu các chất phóng xạ đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia vào Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao nhằm đáp ứng quy định của Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968.
Do các Điều ước quốc tế có thể được ký kết mới hoặc sửa đổi, bổ sung sau thời điểm Nghị định 76/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ có hiệu lực. Vì vậy, Nghị định 76/2018/NĐ-CP chỉ quy định chung là: Công nghệ hạn chế chuyển giao theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc Công nghệ cấm chuyển giao theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tổ chức, cá nhân khi thực hiện đăng ký chuyển giao công nghệ có trách nhiệm tìm hiểu để xác định công nghệ chuyển giao có thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao và Danh mục công nghệ cấm chuyển giao hay không. Đồng thời, trong quá trình tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký chuyển giao công nghệ của tổ chức, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký chuyển giao công nghệ sẽ có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có liên quan để xác định công nghệ đăng ký chuyển giao thuộc hay không thuộc Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao và Danh mục công nghệ cấm chuyển giao.
2. Về câu hỏi "Ngoài các tiêu chí quy định trong Luật Chuyển giao công nghệ và danh mục trong Nghị định 76 ra, còn tiêu chí hay hướng dẫn nào mà doanh nghiệp họ có thể dựa vào để xác định xem công nghệ của họ có thuộc danh mục công nghệ hạn chế/ cấm chuyển giao không?"
Tiêu chí đối với công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao đã được quy định tại các Điều 10 và 11 của Luật Chuyển giao công nghệ. Trên cơ sở đó, Luật Chuyển giao công nghệ giao Chính phủ ban hành Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao và Danh mục công nghệ hạn chế chuyển giao. Thực hiện quy định của Luật Chuyển giao công nghệ, Chính phủ đã ban hành 02 danh mục công nghệ này tại Nghị định 76/2018/NĐ-CP.
Vì vậy, việc xác định công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao cần thực hiện theo quy định của Luật Chuyển giao công nghệ và Nghị định 76/2018/NĐ-CP mà không có tiêu chí hay hướng dẫn nào khác.