Chuyển dịch nhà máy ĐHN từ duyên hải vào lục địa
Ông
Đoàn Văn Bình, Phó Viện trưởng Viện Khoa học năng lượng cho biết, đến
tháng 9, trên toàn thế giới có khoảng 436 lò phản ứng đang vận hành với
tổng công suất lắp máy 370.260GW; 33 lò đang xây dựng và 50 lò đang quy
hoạch trong đó chủ yếu là các lò ứng dụng công nghệ PWR, BWR. Hiện nay,
có 16 quốc gia có tỷ trọng về sản lượng ĐHN chiếm 20%. Trong số đó, Mỹ,
Pháp Nhật là ba nước có số lò phản ứng đang vận hành lớn nhất thế giới.
ĐHN, thủy điện và nhiệt điện được coi là ba nguồn điện năng chính của
điện lực thế giới.
“Ước
tính, đến năm 2020 chúng ta sẽ thiếu hụt khoảng 50 tỷ kWh điện. Để bảo
đảm an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng nhu cầu điện ngày càng cao và
bảo vệ môi trường, tìm kiếm phát triển nguồn năng lượng sạch, phát
triển năng lượng hạt nhân là giải pháp tháo gỡ vấn đề này”, ông Phan
Minh Tuấn, Giám đốc Ban chuẩn bị đầu tư dự án ĐHN và năng lượng tái tạo
nói.
Tháng
7 vừa qua, báo cáo đầu tư của Dự án nhà máy ĐHN Ninh Thuận đã được Hội
đồng thẩm định Nhà nước thông qua. Sau đó, dự án cũng đã được Thủ tướng
Chính phủ, Bộ Chính trị thông qua. Sắp tới, dự án sẽ được đưa ra trình
bày tại phiên họp thứ 6 QH khóa 12 khai mạc vào ngày 20-10 để phê duyệt.
Dự
án Nhà máy ĐHN Ninh Thuận với 2 nhà máy, 4 tổ máy công suất 1000 MW/tổ
dự kiến sẽ đưa vào vận hành bắt đầu từ năm 2020 và 2021. Hai địa điểm
xây dựng nhà máy điện hạt nhân đã được chọn là ở Vĩnh Hải và Phước
Dinh, tỉnh Ninh Thuận, sẽ khởi công xây dựng vào năm 2014.
Dự
kiến tỷ trọng ĐHN trong hệ thống điện sẽ đạt khoảng 7-9% vào năm 2030
và tăng dần trong nửa đầu thế kỷ 21. Đến năm 2050, ĐHN sẽ phải đóng góp
vào lưới điện từ 15-20%.
Theo
ông Phan Minh Tuấn, hiện nay Việt Nam đã lựa chọn được 10 địa điểm có
thể xây dựng nhà máy ĐHN. Ngoài hai địa điểm đang chuẩn bị xây dựng,
còn 8 địa điểm khác nằm dọc miền duyên hải từ bắc Trung Bộ vào miền nam
là: Kỳ Xuân (Hà Tĩnh), Vĩnh Linh (Quảng Trị), Đức Thắng, Đức Chánh
(Quảng Ngãi), Hoài Mỹ (Bình Định), Xuân Phương (Phú Yên), Bình Tiên
(Ninh Thuận), Hòn Đất (Kiên Giang).
|
Chia
sẻ với Việt Nam, ông Jimmy Tin - Nan Wang, Phó Tổng giám đốc Công ty
Công trình ĐHN, Tập đoàn ĐHN Quảng Đông cho biết, hiện nay dọc bờ duyên
hải của Trung Quốc đã quy hoạch kín các nhà máy ĐHN với 17 nhà máy để
sử dụng nước biển làm mát. Vì thế, nước này đang có ý định đưa các nhà
máy ĐHN đi sâu vào thềm lục địa. Cuối năm 2010, nhà máy ĐHN Đại Phán sẽ
được khởi công ở Hàm Ninh - Hồ Bắc. Đây sẽ là nhà máy ĐHN nằm trong lục
địa đầu tiên ở Trung Quốc, cũng là nhà máy ĐHN sử dụng công nghệ AP
1.000 đầu tiên của thế giới nằm trong đại lục.
Lựa chọn công nghệ: Phải an toàn, tin cậy kinh tế
Theo
quy hoạch ĐHN, mặc dù Việt Nam chưa lựa chọn đơn vị cung cấp công nghệ
nhưng yếu tố để lựa chọn sẽ là lò phản ứng nước nhẹ BWR hoặc PWR thế hệ
2+ trở lên có công suất khoảng 1.000 MW với tuổi thọ khoảng 60 năm và
là công nghệ đã được chứng minh trải nghiệm. Nguồn vốn cho nhà máy ĐHN
đã được xác định tỷ lệ nhà đầu tư 25% và 75% là vốn vay nước ngoài.
Ông
Tạ Văn Hường , Vụ trưởng Vụ Năng lượng, Bộ Công thương cho rằng, đối
với nhà máy đầu tiên, Việt Nam sẽ tận dụng tối đa kinh nghiệm của nước
ngoài, năng lực trong nước đến đâu thì tham gia vào đến đấy. Việc đấu
thầu chọn đối tác và công nghệ phải xem xét đến nhiều yếu tố khác ngoài
giá cả như quan hệ chính trị, xã hội, văn hóa… An toàn, kinh nghiệm và
khả năng giúp Việt Nam thu xếp nguồn vốn đầu tư cũng trở thành những
tiêu chí lựa chọn.
Chia
sẻ những kinh nghiệm lựa chọn công nghệ, ông Shu Guogang, Tổng giám đốc
Công ty Công trình ĐHN, Tập đoàn ĐHN Quảng Đông cho rằng, cần phải nhấn
mạnh tới yếu tố thành thạo công nghệ. Khi mới phát triển ĐHN, việc lựa
chọn một công nghệ đã qua trải nghiệm, đã áp dụng nhiều và thành thạo
là điều cần thiết. Cùng với đó là sự phù hợp với điều kiện quốc gia về
chi phí đầu tư, giá thành. Đối với một công nghệ tiên tiến, điều quan
trọng nhất là phải bảo đảm được các yếu tố an toàn, tin cậy và kinh tế.
Việc
xây dựng ĐHN Trung Quốc được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước,
đến nay đã đi vào giai đoạn phát triển nhanh chóng. Hiện tại, Trung
Quốc đã đưa vào vận hành 11 tổ máy ĐHN với tổng công suất lắp máy vào
khoảng 9100MW. Đồng thời, có 24 tổ máy đang trong quá trình xây dựng
với tổng công suất lắp máy khoảng 25400MW. Đến năm 2020, công suất lắp
máy của các tổ máy đã xây xong sẽ đạt khoảng 40000MW, công suất của các
tổ máy đang xây đạt 18000MW. Trong quá trình này, Trung Quốc đã tự
nghiên cứu phát triển loại lò nước áp lực cải tiến thế hệ 2 áp dụng
công nghệ CPR1000.
“Cùng
với làm chủ công nghệ, việc nội địa hóa thiết bị sẽ góp phần làm giảm
giá thành thiết bị công nghệ”, ông Shu Guogang nói. “Hiện nay, việc nội
địa hóa thiết bị ở Trung Quốc có thể đạt mức 100% nhưng chúng tôi sẽ
vừa mua sắm công nghệ nước ngoài, vừa tự nghiên cứu, chế tạo trong
nước”. Từ công nghệ gốc nhập của Pháp, Trung Quốc đã nghiên cứu phát
triển các thế hệ công nghệ ĐHN mới như AP 1.000 và đang phát triển mạnh
mẽ công nghệ CPR 1.000 mới.
Nhà
máy ĐHN đầu tiên Trung Quốc xây dựng (Vịnh Đại Á) có giá thành đầu tư
mỗi KW lên tới 2.700 USD, tuy nhiên, đến nay khi đã cải tiến nội địa
hóa, chủ động về công nghệ, chi phí này chỉ còn 1.500 USD/kW.
Việt
Nam và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng về địa lý, văn hóa, chính
trị nên sẽ có nhiều cơ hội cho hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm phát triển
ĐHN. Tháng 12-2000, Trung Quốc và Việt Nam đã ký bản “Hiệp định hợp tác
hòa bình trong sử dụng năng lượng hạt nhân”. Ông Shu Guogang cho biết
sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm của mình trong quá trình phát triển
ĐHN trong những năm qua cho phía Việt Nam - “Bất kỳ quốc gia nào khi
phát triển ĐHN đều phải đặt yếu tố an toàn lên hàng đầu. Việt Nam phát
triển ĐHN sau nhưng ưu thế lớn nhất là sẽ được tiếp thu và học những
kinh nghiệm của các nước đi trước".